Top 10 Bài tiểu luận phân tích các trích đoạn của “Vụ nổ nước tức thì” trong Ngô Tất To

Ngô Tất To (1893-1954) là một nhà văn xuất sắc của phong trào văn học trước Cách mạng, những bài thơ của ông in dấu với chủ nghĩa hiện thực, ông thường viết cuộc đời của nông dân trong xã hội phong kiến, nơi luôn luôn bế tắc không lối thoát. Đoạn trích “Nước vỡ tức thời” được lấy từ chương XVIII của tiểu thuyết “Tắt đèn” – tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tồn. Với ngòi bút của hiện thực sống động, đoạn trích “Phá nước tức thời” đã chỉ ra bộ mặt xấu xí và tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến ​​đương thời đã đẩy nông dân vào tình trạng vô cùng khốn khổ và bế tắc. khiến họ phải liều mạng để chống cự. Đoạn trích cũng cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của một người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu, vừa mạnh mẽ, đầy tiềm năng. Vui lòng tham khảo một số bài viết phân tích trích đoạn “Tin tức nước vỡ” mà Toplist đã tóm tắt trong bài viết sau.

Đầu tiên


Sự thanh bình

Bài tiểu luận phân tích “Tin tức về nước vỡ” số 1

Ngô Tất Tô (1893 – 1954), quê ở làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc Đông Anh, Hà Nội; là một nhà Nho sống ở nông thôn, có hiểu biết sâu sắc về nghiên cứu Trung Quốc, ông nổi tiếng trong lĩnh vực báo chí và văn học vào đầu thế kỷ 20. Tắt đèn là một tác phẩm tiêu biểu của sự nghiệp viết lách của Ngô Tất To và trong xu hướng hiện thực văn học trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Tác giả lấy chủ đề từ một bộ sưu tập thuế hàng năm ở một ngôi làng phía bắc, qua đó phản ánh số phận bi thảm của nông dân và bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị trong xã hội đương đại. Có thể nói “Tắt đèn” là một bức tranh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam thời Pháp thuộc. Trong “Tắt đèn”, với cây bút sắc nét, nhà văn đã vẽ một bức chân dung sống động của một loạt các nhân vật. Từ vợ chồng cũ của Nghi Quế, đáng thương và đáng thương, cho đến những người đàn ông hống hách, tham lam. Từ một “mẹ chồng” oai phong, người đã gây ra cảm giác tội lỗi cho những kẻ tay sai đầu ngựa. Mỗi người trong số họ trông giống nhau nhưng họ giống nhau về bản chất độc ác và không trung thực. Những nhân vật phản diện này đại diện cho giới tinh hoa thời phong kiến ​​lúc đó ở nông thôn.

Đặc biệt, Ngô Tất Toàn đã xuất sắc xây dựng hình ảnh điển hình của một người phụ nữ nông dân thông qua nhân vật Dậu. Nhà văn đã mô tả một cách trung thực và cảm xúc về số phận khốn khổ của người nông dân bị áp bức, bị bóc lột. Nhà văn chân thành ca ngợi những phẩm chất quý giá của họ trong cuộc sống tối tăm, ngột ngạt. Sự căm ghét tình yêu của Ngô Tất To thể hiện rõ trên mỗi trang. Tình cảm và sự tôn trọng anh dành cho nông dân khiến anh thực sự là người bạn tâm giao và người bạn tâm giao của họ. ông cũng không che giấu sự khinh bỉ và căm ghét đối với những người cầm quyền ở nông thôn. Về mặt nghệ thuật, Light off được coi là cuốn tiểu thuyết hiện thực hay nhất mà thành công lớn nhất là tác giả đã tạo ra một thế giới nhân vật sống động, bao gồm các ví dụ độc đáo.

Đoạn nước vỡ từ chương XVIII của tác phẩm, nội dung xoay quanh những biến động khủng khiếp xảy ra với gia đình cô Đậu trong mùa thu thuế. Các trường hợp thuế là trong thời gian khó khăn nhất. Các quan chức đã về làng để quản lý thuế. Những tên côn đồ hung hãn xông vào nhà của những người chưa nộp thuế để đánh đập, bắt giữ và giải quyết gia đình tiếp tục xiềng xích và thẩm vấn. Dậu phải bán khoai tây, chó, thậm chí là con gái lớn của mình để phục tùng chồng, nhưng những người đàn ông tự hào đã buộc anh ta phải nộp toàn bộ sản lượng của anh trai mình đã chết năm ngoái. Do đó, Dậu vẫn là một người bảo vệ thuế, họ chắc chắn sẽ không buông tay. Hơn nữa, ông Dậu bị ốm sau trận chiến, tưởng rằng ông đã chết đêm qua. Nếu họ bị ràng buộc một lần nữa, cuộc sống của anh sẽ khó giữ. Vấn đề quan trọng nhất đối với tuổi Dậu bây giờ là làm thế nào để bảo vệ chồng trong tình huống nguy cấp này. Đoạn trích tiếp tục câu chuyện trên.

Thông qua các trích đoạn, tác giả tiết lộ và lên án bản chất vô nhân đạo của chế độ thực dân phong kiến ​​lúc bấy giờ và phản ánh tình trạng đau thương của nông dân và luật đấu tranh áp bức. Nhà văn giúp chúng ta nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn và sức sống tiềm tàng của người phụ nữ nông dân nghèo. Trong đoạn trích có hai nhân vật chính, cô Dậu và người cai trị. Ban đầu, cảnh Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu bị những người dân kiêu hãnh trong làng đánh đập vì thiếu tiền thu. Dậu đã cố gắng hết sức để cứu chồng nhưng cuối cùng anh vẫn không thể tránh được sự khủng bố. Nhìn thấy tình yêu sâu sắc của tuổi Dậu, tôi chỉ có thể tưởng tượng sự vị tha dũng cảm của cô ấy. Cô chạy khắp nơi lên xuống, mượn cơm để nấu cháo mỏng. Điều thực sự cảm động là cảnh Dậu múc một vài cái bát cũ kỹ, nhai và hâm nóng chúng nhanh chóng và ân cần mời họ: Giáo viên cố gắng lấy một ít cháo để giúp đỡ ruột. Trong đôi mắt và giọng nói của người vợ đáng thương đó toát ra một thứ tình cảm nồng nàn.

Dậu đã trở thành trụ cột của gia đình đang gặp nạn vì thu thuế và thuế. Chồng đánh, xiềng xích. Một tay, cô chống lại, chạy, phải bán tất cả những gì có thể bán được, kể cả cô con gái đầu lòng ngoan ngoãn và hiếu thảo mà cô bị thương để lấy tiền thu gom và cứu chồng khỏi tù. Cô đã phải rơi nước mắt để khiến Dậu tự do trong một thứ dường như là một cơ thể không có linh hồn. Vào giữa năm khi Dậu đưa bát cháo lên miệng, người cai trị và mục sư đã đâm sầm vào đó bằng roi da, thước kẻ và dây thừng, hét lên để anh ta trả một bộ sưu tập. Quá sợ hãi, ông Dậu lăn ra mà không nói gì, chỉ còn lại Dậu để đối phó với tà ác. Làm thế nào mà Dau đối phó với các thuộc hạ dịch để bảo vệ chồng?

Lúc đầu, khi họ cố gắng kéo Dậu đi nhưng không hành hung mà chỉ chửi rủa, mỉa mai và đe dọa, bà Dậu vẫn dịu dàng cầu xin luật lệ độc ác. Những người đứng đầu ngựa hung hăng nhân danh đất nước, nhà nước đưa tay ra và chồng cô cùng đẳng cấp với tên tội phạm (!) Vì vậy cô phải cầu xin. Bên cạnh đó, kinh nghiệm lâu năm đã trở thành bản năng của một người nông dân thấp họng để biết danh tính của mình. Thói quen kiên nhẫn khiến cô chỉ nài nỉ, kích động lòng nhân từ của kẻ thống trị: Tôi cầu xin bạn, gia đình tôi mới bình tĩnh được một lúc, anh tha thứ! Cách xưng hô với cháu và cháu của người tuổi Dậu là cách xưng hô với những kẻ dưới quyền với người trên, thể hiện sự khiêm nhường của mình. Họ không nghe mà đập mạnh vào anh ta, định trói anh ta lại, khi Dậu giận dữ nhưng vẫn cố gắng chịu đựng, giữ vững quy tắc nài nỉ của người ăn xin: Tôi xin anh! Tất cả những lời nói và hành động của bà Dậu không nằm ngoài mục đích bảo vệ chồng.

Cho đến khi giới hạn của sức chịu đựng bị phá vỡ, tính cách cứng rắn của cô Dậu thực sự bộc lộ. Khi người cai trị đáp lại lời cầu xin của cô bằng những cú đấm thô bạo và sau đó buộc phải trói ông Dậu, cô đã không thể chịu đựng được việc phải liều mạng để chống cự. Sự bùng nổ của nhân vật này là kết quả tất yếu của quá trình chịu đựng sự tàn nhẫn và bất công lâu dài. Điều đó đúng với luật áp bức, có một cuộc đấu tranh. Người đọc thương xót của một người tuổi Dậu phải khiêm tốn nài nỉ hết mức có thể, tôn trọng một người tuổi Dậu độc nhất, mạnh mẽ hơn nhiều. Lúc đầu, cô chống lại kẻ thống trị bằng lý luận: Chồng tôi bị bệnh, anh không được phép lạm dụng! Trong thực tế, cô chỉ nói về con người tối thiểu của con người. Cô ấy không còn tự xưng là cháu và gọi tên cô ấy theo quy định, nhưng cô ấy là tôi – ông nội, ngẩng đầu nhìn thẳng vào đối thủ.

Từ vị trí thấp kém hơn, cô Đậu trở thành một người ngang hàng với những người đàn ông lớn tuổi vẫn cưỡi cổ cô. Lời nói của cô là một lời cảnh báo khó khăn và vẫn có đủ tình yêu và lý trí. Nhưng tà ác thường không biết giữ lại. Kẻ thống trị tiếp tục đến đánh cô và nhảy vào để cố gắng kéo Dậu đi. Tình yêu mãnh liệt của cô đã thúc đẩy cô hành động quyết liệt chống lại những tay sai hung ác đang cố tình phá hoại gia đình cô. Cô từ chối để chồng mình bị ngược đãi một lần nữa. Hành động chống lại bọn tay sai là bất ngờ nhưng thực ra hạt giống phản kháng từ lâu đã bị che giấu dưới sự xuất hiện hàng ngày của cô. Sức chịu đựng kéo dài và áp bức lên đến đỉnh điểm trong cuộc nổi loạn.

Khi người cai trị động vật tát vào mặt cô ta và sau đó hung hăng tấn công ông Dậu, cô ta nghiến hai chiếc răng đầy thách thức: Bạn trói chồng ngay lập tức, cô ta đưa nó cho bạn xem! Không còn ông bà, cháu, tôi – còn nữa, cô quay sang tỏ tình với bà ngoại và gọi luật lệ là bạn. Nó cho thấy thái độ thù hận, coi thường đến cùng cực và khẳng định tư thế của cô đã sẵn sàng để đè bẹp đối thủ. Dậu là một lò lửa đang bùng cháy dữ dội. Cô không buồn cãi nhau với kẻ thống trị lừa đảo và trừng phạt nặng nề anh ta. Sau cảnh báo khắc nghiệt là sự phản kháng mạnh mẽ. Rồi cô túm lấy cổ anh và ấn cửa. Sức mạnh không may mắn của người nghiện chạy không theo kịp sự thúc đẩy của người phụ nữ mạnh mẽ, anh ta ngã bẹp xuống đất … Và nhà vật lý hung hăng cuối cùng đã nắm lấy tóc của cô ấy bởi Dậu; Gõ một cái, ngã xuống sàn.

Đoạn văn miêu tả cuộc đối đầu giữa Dậu và những kẻ độc ác được tác giả miêu tả một cách sinh động và trang nhã. Trong một xã hội mà tội phạm đang hoành hành, còn gì hả hê hơn khi người ta chứng kiến ​​cái ác bị trừng phạt đúng cách?! Tại sao Dậu có sức mạnh kỳ lạ để hạ gục hai tay sai hung hãn như vậy? Đó là sức mạnh của lòng thù hận mà gốc rễ của sự thù hận đó là tình yêu và ý thức bảo vệ chồng con của người phụ nữ nghèo. Khi gừng cho cháo ăn cho chồng và xem để xem chồng có ăn ngon không, khi cầu xin kẻ độc ác và khi nghiến răng và đánh gục họ, trước và sau, Dau luôn vì chồng bị bệnh. Tình yêu của chồng, tình yêu dành cho con cái và tinh thần phản kháng lâu đời đã thắp lên ngọn lửa phản kháng trong lòng cô. Nỗi sợ hãi cố hữu của những người bị áp bức trong giây lát tan biến, chỉ còn lại tính cách cứng rắn của một người chính trực. Hành động chống lại sự bộc phát là biểu hiện cụ thể của tình yêu mãnh liệt trong trái tim người phụ nữ dường như được sinh ra để từ bỏ để từ bỏ, hy sinh.

Tuy nhiên, sự phản kháng của Dậu chỉ là một hành động phá vỡ ngân hàng của một cá nhân, không phải là một hành động để phá vỡ và áp bức áp bức bất công để giải phóng một giai cấp và một dân tộc. Nhưng nó cũng chứng minh rằng luật pháp áp bức và có đấu tranh. Càng áp bức thì cuộc chiến càng mạnh. Chứng kiến ​​cuộc ẩu đả giữa vợ và người cai trị và bộ trưởng, Dậu quá sợ hãi đánh thức vợ mình, nhưng mệt mỏi, ngồi dậy và nằm xuống lần nữa, run rẩy và khóc: – Không thể nào! Đánh người là được, chúng ta đánh người để bị cầm tù, có tội. Dậu đã cố gắng nhắc nhở vợ về sự thật phổ biến trong xã hội lúc bấy giờ, nhưng bà Đậu không chấp nhận sự vô lý đó. Cô giận dữ hét lên: Tôi thà đi tù, để họ quan hệ tình dục để tôi không thể chịu đựng được … Tuyên bố này khẳng định rằng Dậu không muốn cúi đầu chịu đựng sự khủng bố và bất công.

Ý nghĩa của câu tục ngữ đã phá vỡ ngân hàng thông qua ngòi bút của thực tế bởi Ngô Tất Tất được thể hiện một cách sống động và thuyết phục. Mặc dù tác giả lúc đó chưa giác ngộ với cuộc cách mạng và tác phẩm kết thúc với tình trạng bế tắc của bà Diệu, nhà văn Nguyễn Tuấn nhận xét rằng Ngô Tất Tơ, với Off Lights, đã “thuyết phục nông dân đấu tranh cho cách mạng. ..”. Với ý thức thực tế mạnh mẽ, Ngô Tất Toàn cảm nhận được xu hướng “vỡ nước” và sức mạnh vô biên của nó. Có thể nói, đoạn trích này đã tiên đoán cơn bão của cuộc nổi dậy của nông dân dưới các cuộc mít tinh, sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ sẽ lật đổ chế độ thực dân phong kiến ​​thối nát, tham nhũng.

Nhân vật cầm quyền trong đoạn trích là điển hình của tay sai chuyên nghiệp, một công cụ áp bức mạnh mẽ của giai cấp thống trị. Để khẳng định vai trò của mình trong vụ án thuế, anh ta đánh người, trói người vô tội vạ. Trong chế độ quan liêu cầm quyền ở nông thôn, quy tắc này chỉ là một tay sai cấp bậc nghèo. Anh ta hung dữ, sẵn sàng phạm tội mà không bỏ cuộc vì không ai ngăn cản anh ta. Ông tuyên bố một cách thô thiển để đại diện cho nhà nước. Anh ta dùng tên nước để làm những điều tàn nhẫn với người nghèo. Do đó, có thể nói rằng người cai trị không tên là hiện thân hoàn chỉnh nhất của cỗ máy “nhà nước” vô nhân đạo lúc bấy giờ. Mặc dù chỉ xuất hiện trong một đoạn văn ngắn, nhân vật người cai trị thực sự được tác giả miêu tả với các đặc điểm nổi bật và giá trị khái quát cao.

Đoạn trích Việc phá vỡ ngân hàng là một đoạn văn hay, điển hình cho kỹ năng cầm bút thông minh của Ngô Tất Tồn. Ngôn ngữ kể chuyện, mô tả và đối thoại của các nhân vật rất đặc biệt. Đó là tiếng nói đơn giản, tự nhiên của cuộc sống hàng ngày. Mỗi nhân vật có ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của người cai trị là thô lỗ. Lời nói của Dậu đôi khi nhẹ nhàng và tha thiết, khi dữ dội dữ dội. Những lời của bà lão thật thà, dịu dàng … Những lời của người nông dân được tác giả sử dụng rất trôi chảy, tình huống rất phù hợp và phù hợp. Nhà văn Ngô Tất To đã dành cho nhân vật chính Bà Dậu yêu thương, cảm thông và tôn trọng. Các tình tiết sống động và kịch tính trong các trích đoạn đã góp phần hoàn thiện tính cách của một người phụ nữ xinh đẹp, xinh đẹp.

Dậu là người mộc mạc, hiền lành, vị tha, khiêm tốn, kiên nhẫn và kiên nhẫn … nhưng hoàn toàn không yếu đuối, trái lại, cô vẫn có một sức sống mãnh liệt, một tinh thần phản kháng tiềm năng. Khi bị đẩy đến cuối con đường, cô đã chiến đấu trở lại quyết liệt. Đó là một thái độ bướng bỉnh, bất khuất, dám đương đầu với cái ác trong xã hội.

2


Sự thanh bình

Bài tiểu luận phân tích đoạn trích “Phá nước tức thời” số 2

Tức là vỡ nước là chương XVIII của tiểu thuyết Tắt đèn. Nếu được đặt trong mạch chung của tiểu thuyết, đây là một chương rất kịch tính. Mười bảy chương trước của Dậu cho biết có bao nhiêu cảnh khốn khổ và khốn khổ của cặp vợ chồng tuổi Dậu trong những ngày thu thuế.

Gia đình nghèo “lên hạng thứ hai, hạng nhất trong cùng hạng”, phải chịu thuế, ông Dậu lại nằm liệt giường. Do đó, vì bộ sưu tập của Dậu, cô Đậu phải bán chó, bán con, chịu đựng những lời nguyền rủa của hai vợ chồng và cũng phải “nếm” ngay cả “chư Phật”. Vì bộ sưu tập đó, ông Dậu bị đánh đập và trói chặt giữa bệnh tật, chế độ thực dân và phong kiến ​​không chỉ đánh thuế người sống mà còn nuôi sống người chết để chiến đấu. Do đó, sau khi trả bộ sưu tập của ông Đậu, Dậu nghĩ rằng mình đã trả “nợ nhà nước”, và thật bất ngờ, những người tự hào nói rằng bà vẫn phải trả bộ sưu tập “Chú lợn” đã chết kể từ năm Dậu sau đó bị đẩy đến cùng một chỗ, ông Dậu lại bị đánh, trói cho đến khi chết ngất. Vào nửa đêm, mọi người bắt ông Roo tôi giống như một xác chết được trả lại cho Dậu. Nhờ những người hàng xóm đến giúp đỡ cô, Dậu đã cứu mạng chồng mình. Nhưng đó là buổi sáng, các quy tắc và bộ trưởng “sắp sửa lao vào bằng roi da, thước kẻ và dây thừng”, cuộc sống của Dậu bị đe dọa nghiêm trọng. Thế là “nước vỡ bờ”, bà Dậu chống cự quyết liệt. Đặt nhân vật vào một tình huống kịch tính như vậy, cả chương đều phơi bày khía cạnh tàn nhẫn, vô nhân đạo của những người hầu sai lầm của thực dân, phong kiến, đồng thời làm nổi bật những phẩm chất và tính cách tốt đẹp của người dân. Nông dân nữ Việt Nam.

Khuôn mặt dã man, tàn nhẫn của những người hầu dưới sự thống trị của thực dân, chế độ phong kiến ​​được thể hiện qua hình ảnh của người cai trị và tên của thủ tướng. Cai cai là một loại tiêu đề hoàn toàn. Trong tay anh, có những người lính được kể. Nhưng “cai” chưa phải là quan. Đó chỉ là cấp bậc và danh hiệu của những người lính dưới chế độ cũ. Trên thực tế, cai trị cũng là một loại công chức, một công chức của một quan chức chính phủ, một quan chức huyện trong quá khứ. Bộ trưởng hoàn toàn không có chức danh. Ông là người hầu của hàng xóm. Anh ấy thậm chí có thể là một người nghèo. Một lần, Dậu có lần nài nỉ anh: “Anh nghèo với nhau, anh có thể nói với Li cho em”. Nhưng anh “hăm dọa mang gậy” bỏ đi mà không quên ngầu: “Tôi không dám kết bạn với nhà cô ấy”. Các quy tắc và bộ trưởng, mặc dù địa vị và địa vị của họ là khác nhau, thái độ của họ không hoàn toàn giống nhau, nhưng sự vô nhân đạo, tàn nhẫn không thua kém bất cứ ai. Chỉ với một vài chi tiết nghệ thuật, chân dung của họ đã được nhà văn miêu tả một cách tinh xảo.

Ở giữa nhà của người tuổi Dậu, thay vào đó là những túp lều như kho chứa tro, trong đó chỉ có một người đàn ông vừa thoát chết, “ngã bệnh”, một người phụ nữ chăm sóc con của mình với ba đứa con, và vị thủ tướng xuất hiện như một bó đầu trâu, mặt ngựa bị sát hại. Chúng rất dũng mãnh, hổ hổ “đâm sầm vào” nhà của Dậu. Tay họ nắm giữ tất cả các loại công cụ để đánh người để đe dọa kẻ yếu, “bài hát roi da”, “thước kẻ cầm tay” và “sợi dây”. Vừa đến nhà, luật lệ lập tức khiếp sợ. Anh “quất đầu xuống đất”. Trước cô và anh trai Dậu tỏ ra rất hách dịch. Anh ta gọi Dậu là “anh chàng”, Dậu là “bạn”, gọi họ là “ông” và “bố của bạn”. Quy tắc mở miệng là “la hét”, “la hét”. Anh ta hét lên với Dậu: “Bạn sẽ nói với cha mình chứ?” Và khi “la hét”, khi “la hét”, các quy tắc đôi khi “đảo mắt”, đôi khi là “giọng nói mùa hè”. Bộ trưởng không hống hách như thế, nhưng anh ta rất tuyệt, quy tắc súc sắc khiến anh chàng này thậm chí còn kiêu ngạo hơn: “Bạn không sẵn sàng thu tiền cho đến chiều mai? Đó là! Hãy nói với anh ta để anh ta ra ngoài.” Gia đình gọi cho quan, nhưng anh tôi không có quyền giám sát cô ấy trong một giờ. “

Dậu bị ốm, bị trói cho đến khi ngất xỉu, vừa thoát chết, nhưng cả luật lệ và mục sư đều không có chút trái tim. Bước vào nhà, thấy ông Dậu “bát cháo run rẩy … vừa mới ra miệng”, các quy tắc lập tức để lời nguyền nói: “Bạn nghĩ rằng bạn đã chết đêm qua, bạn vẫn còn sống?”. Nhìn thấy ông Dậu vì quá sợ hãi “” phải lăn lộn ở đó, không thể nói gì “, ông bộ trưởng” cười nham hiểm: Ông sẽ phải trở lại như đêm qua “, cả hai đều vô nhân đạo. Dậu. Họ không được nghe lời cầu xin của bất kỳ người phụ nữ nào. “Các quy tắc không cho phép Dậu kết thúc câu nói của mình …! Anh chỉ giục anh: “Trả tiền để thu! Nhanh lên!”. Sau đó, anh ta đe dọa, “Nếu bây giờ bạn không có tiền để trả cho bộ sưu tập của mình, thì bạn sẽ dỡ cả gia đình của mình.” Thái độ của anh ta ngày càng hung hăng. Ông phái nhà vật lý trưởng đến trói Dậu. Thấy cái tên này “dường như không dám hành hạ một người bệnh nặng, sợ hay chuyện gì xảy ra” anh “điên” giật dây “,” chạy sầm sầm “với ông Dậu …

“Đâm vào”, “đâm sầm vào”, “đập vào”, “nhảy vào”; “gõ roi trên mặt đất”, “la hét”, “la hét”, “mỉa mai”, “tóm gọn”, “đập”, “luôn đấm vào bụng Dậu”, “tát vào mặt cô ấy” đập “,” Chân dung của người cai trị và thủ tướng được miêu tả bằng những cử chỉ, giọng nói và cách cư xử như vậy. Ngô Tất Để không sử dụng bất kỳ chi tiết nào để mô tả suy nghĩ của họ. Đó là sự sắc sảo, tinh tế của nhà văn. Bởi vì, đầu trâu, mặt ngựa , coi việc đánh người như một điều tự nhiên, không bao giờ nhìn thấy lòng trắc ẩn và lòng trắc ẩn, chúng ta có thể làm gì? Bỏ qua phần mô tả giới thiệu, Ngô Tất Cả đều làm nổi bật bản chất vô nhân đạo, bất tuân và thú tính của những người hầu, tay sai và tạo ra căng thẳng cho câu chuyện.

Trong tiểu thuyết Tắt đèn, Dậu được mô tả là một người phụ nữ rất dịu dàng. Vì bị áp bức và bóc lột, Dậu chịu đựng, chịu đựng và trong nhiều trường hợp, cô là một người có thể chịu đựng, chịu đựng. Nhưng Dậu không phải là người yếu đuối, chỉ biết than khóc. Thông minh, sắc sảo, tháo vát, tháo vát, Dậu vẫn có tiềm năng kháng cự. Nhưng ở giữa nhà xã, trước những người đàn ông kiêu hãnh, cô dám “hú”, hét lên sự vô nhân đạo của chế độ thu thuế thời thuộc địa và phong kiến: “Chết tiệt cơ thể của tôi! Chúa ơi! Tôi chết rồi! để thu thập, mở bầu trời “. Bị ném trở lại từ ngôi nhà làng, và sau đó được cứu, ông Dậu chỉ có thể khóc tôi, khóc Ti và khóc cho số phận của mình. Trái lại, Dậu tỏ ra có thái độ liều lĩnh. Cô bình tĩnh khuyên chồng: “Về phần sưu tầm, nhưng thực sự rất nóng, nhưng nó vẫn chưa được năn nỉ. Thịt rất tanh, không ai ăn được. Tôi yên tâm nghỉ ngơi, không phải lo lắng gì cả. . “

Cảnh “vỡ nước” mô tả sự tiến hóa tâm lý của một nhân vật một cách nhất quán. Dậu có thể kiên nhẫn, bền bỉ, nhưng khi bị đẩy vào tường, anh cũng biết cách chống cự quyết liệt. Một sự phản kháng tiềm tàng, trước thái độ hung hăng, những lời hách dịch của luật lệ, bà Dậu “run rẩy”. Cô sợ ít, nhưng lo lắng cho chồng nhiều. Cô gọi quy tắc “ông nội”, cô tự xưng, cầu khẩn, khẩn khoản bằng giọng nói “tuyệt vọng”: “Hai người đàn ông được ban phước để bảo anh hãy cho tôi ăn xin …”, “Khốn kiếp! Gia đình tôi không có ai,” ngay cả khi anh ta chửi rủa anh ta. Xin hãy nhìn lại! “Khi thấy cuộc sống của chồng bị đe dọa, thái độ của Dậu hoàn toàn thay đổi. Cô vẫn cố năn nỉ, nhưng vội vàng đặt đứa bé đang bế trên mặt đất, chạy đến cứu tay cô. cầm quyền, không đe dọa anh ta chạm vào Dậu, nói với “ông – cháu”, bà Dậu đã truyền “ông – tôi” cho người cai trị. Người phụ nữ thất vọng đã liều mình đứng dậy và đặt mình ngang hàng với quy tắc để cảnh báo anh ta: “Chồng tôi bị bệnh, anh không được phép hành hạ!” Thái độ của Dậu ngày càng trở nên quyết liệt. Người phụ nữ dịu dàng bỗng trở nên tốt bụng. Cô hạ thấp quy tắc thành “bạn”. và thách thức: “Bạn trói chồng ngay lập tức, cô ấy chỉ cho bạn.”

Dậu hạ gục những tên tay sai độc ác trong cùng một cấp bậc, bất khuất với sức mạnh kỳ lạ – Cô “nắm lấy cổ” cai trị “và đẩy nó ra cửa.” Cai ngã xuống đất, và miệng vẫn bập bẹ, trói buộc vợ chồng. “Tên của trợ lý cũng bị Dậu tóm lấy,” anh ta túm tóc một chút, ngã xuống hiên nhà. “Giọng nói của Ngô Tất trở nên ảm đạm, và dưới ngòi bút của mình, hình ảnh của Dậu trở nên mạnh mẽ và dữ tợn, hình ảnh của những tay sai độc ác trở nên nhỏ bé, hèn nhát, lố bịch và hài hước. Thấy rằng Dậu quá dữ dằn, Dậu là run rẩy và hét lên, “U không thể làm thế! Đánh người là được, nếu chúng tôi đánh họ, chúng tôi phải vào tù, có tội “. Nhưng” điều đó có nghĩa là nước “không thể tránh khỏi” phá vỡ ngân hàng “. Nghe ông Dậu, bà Đậu còn phẫn nộ hơn:” Tôi thà đi tù. Hãy để họ làm cho tội lỗi mãi mãi, tôi không thể chịu đựng được … “Câu nói mộc mạc, bực bội đó giống như một lời tuyên bố mạnh mẽ cho quy tắc: Có áp bức, dứt khoát có một cuộc đấu tranh.

Sức mạnh kỳ diệu của người tuổi Dậu là sức mạnh của sự thù hận và oán giận bị đè nén đến mức cô không thể chịu đựng được nữa. Đó cũng là sức mạnh của tình yêu vô biên đối với chồng con. Một người phụ nữ luôn nghĩ về chồng, con mình, nhiều lần dùng thân thể để bảo vệ roi vọt của chồng, vì chồng và con gái sẵn sàng “vào tù”.

Nguyễn Tuân gọi chân dung của Dậu trong “Tắt đèn” là “chân dung lạc quan”. Nguyễn Tuấn khẳng định rằng anh đã gặp Dậu trong “đám đông lúa gạo Nhật Bản trong thời kỳ nổi dậy”. Dưới ngòi bút của Ngô Tất To, đã khẳng định rằng tài năng của cô trong việc thể hiện nhân vật Dậu vừa xuất hiện sống động như một người thật, vừa cho thấy quy luật tất yếu của cuộc sống thực. Cho Cho, Nữ Dậu trong tình yêu của bạn, trong số những người yêu thích sự khác biệt của họ.

3


Bình An

Bài viết văn bản và tài liệu của bạn

Ngô văn tính là văn bản trong văn hóa trong văn hóa và văn hóa Trọng trong tình yêu, tình yêu, sự quan tâm của bạn, sự quan trọng và sức khỏe của bạn. Tình bạn có thể có sự khác biệt, quan tâm đến sự khác biệt, sức khỏe của họ.

Trọng trong phần mềm, phần thưởng của anh ấy trong phần của anh ấy. Và thiết bị của chúng tôi, thiết bị và thiết kế của người khác.

Nam tính bị lỗi trong trò chơi điện tử. Chị ăn sườn, bán chó, bán con gái con cho cho ăn Anh Dậu chỉ có một phần hai, sau đó là một phần của anh ấy. Và Nữ Dậu và chiếm lĩnh. Mạnh mẽ khi hôn nhau và quan trọng, tình yêu và tình cảm, tình cảm và tình cảm.

Chị Dậu là một trong những người bạn yêu thích sự nghiệp của họ. Chị bị thương ở chỗ Chị ơi, ăn chơi, vui vẻ và thoải mái. Từ tính của chúng tôi, một trong những cách tốt nhất là sự khác biệt của Việt Nam.

Chị bị phạt trong gia đình, bị giết chết. Chị sành và thiết bị và nước anh Chăm, anh ta, ở một số người khác nhau, người khác, một trong những người khác, anh chỉ có một phần của bạn. Thoát header, they định lôi anh Dậu đi but do not hành hung which is our lại chửi bới mia mai to nỗi chị Đậu Văn van xin “cháu xin ông” to khất hạn nộp sưu but then they are san to đánh chị thì have chạm to limits phần cứng, phần thưởng của “người đàn ông, người con” Tối nay, chúng tôi có thể làm được điều đó.

Chị Dậu và lên đồ Em trai của bạn đang ở trong mối quan hệ với nhau Không có gì khác nhau, đó là một trong những thứ khác nhau. Tình yêu của tôi Hai chức năng nghiến dữ: “Mày trói ngay khi bà đi, bà cho em xem!” Phần cứng và phần cứng. Khàn khàn, tình yêu, tình yêu, sức khỏe, sức khỏe, sức khỏe, sức khỏe, sức khỏe và sức khỏe.

Một phần của nó, một trong những thứ khác nhau, một trong những thứ khác nhau .. mang tên của chúng tôi, một trong những thứ tuyệt vời nhất. Cách làm của chúng tôi, một trong số những người bạn, một người trong số họ Phục hưng. Có thể có một phần của họ khi bạn đang ở trong tình trạng này. Tuy nhiên, văn phòng của nữ Dậu và là một trong hai đội của họ. Có phần theo quy tắc, có rất nhiều

Nhân vật cai cơ thể là nhân vật của chúng tôi Hắn là một trong những món ăn, một trong những món ăn, một trong những món đồ ăn ngon Trong phạm vi hội nghị, cải tiến, hôn tay là sự sai lầm

Một phần của chúng tôi. Ngô chỉ có một nửa, trong số những người khác nhau. Qua thuyết minh, ta trong nhà và văn bản

4


Bình An

Bài viết văn học

Ngô Văn Cảnh là một trong trong văn hóa và văn hóa, quan trọng nhất. Các bộ phận của chúng tôi, một bộ phận, một bộ phận, một bộ phận khác nhau. Và giá trị, có một số thứ khác nhau. Và trong tác phẩm, phân đoạn “Tức nước vỡ bờ” là một trong những đoạn văn gây nhiều xúc động và có ý nghĩa nhất trong lòng người đọc.

Tác giả lấy đề tài từ vụ thuế hàng năm ở những làng quê Bắc Bộ, với những hình ảnh như in đậm vào tâm trí của người đọc, hiện lên số phận bi thảm của những người phụ nữ nói chung và những người nông dân nói riêng cùng bản chất của giai cấp thống trị trong xã hội đương thời. Đó là tình cảnh của người nông dân “một cổ hai tròng” khi vừa chịu ách bóc lột của những kẻ tàn dư phong kiến còn sót lại, vừa của những kẻ đi theo thực dân pháp, bán đứng tổ quốc. Trong tác phẩm, tác giả đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vẽ nên chân dung của hàng loạt những nhân vật ở trong tác phẩm. Điển hình cho những kẻ áp bức con người là vợ chồng Nghị Quế, luôn lợi dụng tình cảnh của những con người đang gặp khó khăn nhằm trục lợi hay những bọn tay sai cường hào tuy chỉ là những kẻ làm thuê nhưng chúng lại không biết thương yêu những người đồng loại vất vả mà lại chỉ biết áp bức những người nông dân tay không tấc sắt. đó chính là những con người đại diện tầng lớp tiêu biểu phong kiến tàn dư của xã hội.

Ngoài ra, tác giả còn rất khéo léo xây dựng hình tượng vô cùng kiên cường mà cũng đầy cảm động về hình ảnh của  chị Dậu – một người phụ nữ luôn hết lòng chăm lo cho chồng cho con mà không nghĩ cho mình bao giờ. Tốt đẹp là thế nhưng họ luôn phải chịu sự áp bức từ kẻ khác. Họ cũng không có cách nào để phản kháng hoàn toàn bởi chính họ còn không biết làm cách nào thoát ra khỏi vũng lầy. Mở đầu là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị bọn hào lí trong làng đánh đập dã man chỉ vì thiếu tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cô gắng hết sức để cứu chồng nhưng cuối cùng anh Dậu vẫn không tránh được sự bắt bớ, hành hạ. Có thấy được tình thương yêu chổng con sâu sắc của chị Dậu, ta mới hình dung được sự dũng cảm quên mình của chị. Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo loãng. Cảm động thay là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt cho cháo mau nguội rồi ân cần mời mọc: Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột. Trong ánh mắt và giọng nói của người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình cảm tha thiết đến nao lòng.

Chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình đang quẫn bách khốn khổ vì sưu, vì thuế. Chồng bị đánh đập, gông cùm. Một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lòng ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ còn là một cái xác không hồn. Giữa lúc anh Dậu vừa bưng bát cháo kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập sấn vào với những roi song, tay thước và dây thừng, hò hét bắt anh phải nộp tiền sưu. Quá khiếp đảm, anh Dậu đã lăn đùng ra không nói được câu gì, chỉ còn chị Dậu một mình phải đối phó với những kẻ độc ác, luôn đòi ra tay với vợ chồng chị.

Ban đầu, khi bọn chúng ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi bới, mỉa mai, đe dọa thì chị Dậu vẫn nhũn nhặn van xin tên cai lệ độc ác. Vả lại, kinh nghiệm lâu đời đã thành bản năng của người nông dân thấp cổ bé họng là phải biết rõ thân phận mình. Thói quen nhẫn nhục khiến chị chỉ dám năn nỉ, khơi gợi lòng nhân từ của tên cai lệ: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tĩnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô ông, cháu của chị Dậu là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự hạ mình. Bọn chúng chẳng thèm nghe mà sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định bắt trói anh một lần nữa thì chị Dậu đã giận xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ van nài: Cháu xin ông! Mọi lời nói, hành động của chị Dậu đều không ngoài mục đích để bảo vệ chồng.

Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách cứng cỏi của chị Dậu mới thật sự bộc lộ. Lúc tên cai lệ đáp lại lời van xin của chị bằng những cú đấm thô bạo rồi sấn đến trói anh Dậu thì chị tức quá không thể chịu được nên đã liều mạng chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách này là kết quả tất yếu của quá trình chịu đựng lâu dài sự tàn ác, bất công. Điều đó đúng với quy luật có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu. Lúc đầu, chị cự lại tên cai lệ bằng lí lẽ: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Thực ra, chị chỉ nói đốn lòng nhân đạo tối thiểu của con người. Chị không còn xưng cháu và gọi tên cai lệ bằng ông nữa mà xưng là tôi – ông, ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào mặt đối thủ.

Từ vị thế thấp hèn của kẻ dưới, chị Dậu vụt trở thành ngang hàng với những kẻ xưa nay vẫn đè đầu cưỡi cổ mình. Câu nói của chị là lời cảnh cáo cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí. Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi anh Dậu đi. Lòng yêu thương chồng tha thiết đã thúc đẩy chúng phải hành động chống trả quyết liệt lũ tay sai tàn ác đang cố tình phá nát gia đình chị.

Chị không chấp nhận để chồng mình bị hành hạ thêm một lần nữa. Hành động chống trả bọn tay sai diễn ra thật bất ngờ nhưng thực ra mầm mống phản kháng đã ẩn chứa từ lâu dưới vẻ ngoài cam chịu nhẫn nhục thường ngày của chị. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức lên đến tột đỉnh khiến cho thái độ phản kháng bùng lên dữ dội. Tiếp sau lời cảnh cáo đanh thép là hành động phản kháng mạnh mẽ. Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm Do đâu mà chị Dậu có sức mạnh lạ lùng một lúc quật ngã hai tên tay sai hung hãn như vậy ? Đó là sức mạnh của lòng căm hờn mà cái gốc của lòng căm hờn ấy lại chính là tình yêu thượng và ý thức bảo vệ chồng con của người đàn bà nghèo khổ.

Tuy vậy, sự phản kháng của chị Dậu mới chỉ là hành động tức nước vỡ bờ của một cá nhân chứ chưa phải là hành động vùng lên phá vỡ áp bức bất công để tự giải phóng của một giai cấp, một dân tộc. Thế nhưng nó cũng chứng minh cho quy luật có áp bức, có đấu tranh. Áp bức càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt.

Ý nghĩa của câu tục ngữ “tức nước vỡ bờ” qua ngòi bút hiện thực của Ngô Tất Tố đã được thể hiện thật sống động và đầy thuyết phục. Tuy tác giả khỉ đó chưa giác ngộ cách mạng và tác phẩm kết thúc bằng cảnh ngộ bế tắc của chị Dậu nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét rằng Ngô Tất Tố, với Tắt đèn đã “xui người nông dân đấu tranh cách mạng…”.

5


Bình An

Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 5

Tắt đèn là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Ngô Tất Tố, tác phẩm không chỉ mang giá trị hiện thực mà còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Mặc dù bị đàn áp, bị đẩy đến bước đường cùng nhưng họ không cam chịu, mà luôn mang trong mình tinh thần phản kháng mãnh liệt. Đoạn trích Tức nước vỡ bờ một mặt vạch trần bản chất độc ác của giai cấp thống trị, mặt khác ngợi ca vẻ đẹp tình yêu thương và sức mạnh tinh thần phản kháng của những người nông dân.

Nhan đề “Tức nước vỡ bờ” do nhà biên soạn đặt, nó là một câu thành ngữ thể hiện quy luật khi nước bị dồn ứ lâu, quá đầy sẽ làm vỡ bờ ngăn. Qua câu thành ngữ này nhằm nói lên quy luật xã hội: có áp bức ắt có đấu tranh. Lấy nó làm nhan đề đoạn trích là hoàn toàn hợp lí: một mặt vừa phán ảnh đúng nội dung của tác phẩm, mặt khác nêu lên chân lí: khi con đường sống của quần chúng bị áp bức thì chỉ có con đường đấu tranh để tự giải phóng chính mình. Tác phẩm có hai hình tượng trung tâm là tên cai lệ và chị Dậu. Mỗi nhân vật đại diện cho một giai cấp, một phẩm chất khác nhau, qua đó bộc lộ những suy nghĩ, quan điểm của tác giả về xã hội lúc bấy giờ.

Nhân vật cai lệ là đại diện cho bộ mặt độc ác, bất nhân của những kẻ cầm quyền trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Hắn ta là một tên tay sai “chuyên nghiệp”, thành thạo trong việc đánh, trói, dọa nạt và cướp bóc của dân lành. Hành động gây tội ác được hắn ý thức rằng đang thực thi công việc của “người nhà nước”. Chính bởi suy nghĩ đó nên mỗi hành động của hắn vô cùng độc ác, không có chút tình thương. Trước hết là qua lời nói, hắn dùng những lời lẽ cộc cằn, thô lỗ: “thét” “quát” “hầm hè” “nham nhảm thét”,… Thể hiện rõ ràng nhất qua hành động. Mặc dù anh Dậu đang bị ốm nặng, chị Dậu tha thiết van xin, quỳ lạy nhưng hắn vẫn sẵn sàng bắt và đánh anh Dậu. Người nhà lí trưởng lo lắng không dám hạ thủ trước một người ốm nặng thì chính hắn là kẻ trực tiếp ra tay. Hắn “giật phắt cái thừng” từ tay người nhà lí trưởng “chạy sầm sập đến để trói anh Dậu”. Hắn là kẻ vô nhân tính, tàn bạo. Trước sự can ngăn của chị Dậu hắn chẳng ngại ngần “bịch luôn vào ngực”, “tát vào mặt”,… ngay cả với một người phụ nữ hắn cũng sẵn sàng đánh đập. Hắn quả thật không bằng loài cầm thú.

Bên cạnh tên cai lệ độc ác, bất nhân lại hiện lên hình ảnh của một chị Dậu có hoàn cảnh đáng thương nhưng giàu tình yêu thương và sức phản kháng mãnh liệt. Gia đình chị vốn là hạng cùng đinh trong làng, chạy vạy vất vả mãi mới lo được tiền sưu cho chồng, nay lại thêm tiền sưu cho người em đã mất, khiến gia đình chị càng khốn đốn hơn. Chị bán cả chó, cả con mà vẫn không đủ tiền nộp sưu, giữa tình cảnh đó thì cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào đòi bắt lôi anh Dậu đi. Tình cảnh hết sức khốn cùng và thảm thương.

Tình yêu thương của chị được thể hiện rõ nhất qua lời nói, hành động với chồng. Chị lấy bát cháo mang lại cho chồng, chị ngồi nhìn anh ăn và lo lắng từng miếng anh có ăn ngon miệng không. Dáng vẻ của người đàn bà ấy thật đáng trân trọng làm sao. Chị cũng khốn khổ chạy vạy khắp nơi, nhưng đến lúc này chị chỉ suy nghĩ cho chồng, cho con mà không hề quan tâm đến bản thân mình. Khi cai lê đến chị hết sức van xin, khất sưu, chị hạ mình trước tên cai lệ mạt hạng để chồng không bị đánh trói. Khi mọi sự nỗ lực của chị đều bị khước từ chị sẵn sàng đứng lên đánh nhau với chúng để bảo vệ chồng. Chị quả là một phụ nữ thủy chung, yêu thương chồng mình hết mực.

Nhưng không dừng lại ở đó, trong phụ nữ nông dân chất phác ấy còn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Sự phản kháng của chị thể hiện theo trình tự hết sức hợp lí từ chỗ cố gắng van xin, đến chống cự bằng lí lẽ và cuối cùng là đáp trả bằng hành động. Sự phản kháng của chị là bột phát nhưng cũng phần nào cho thấy sức sống tiềm tàng trong chị và những người nông dân như chị. Khi bị áp bức, bị dồn đến bước đường cùng chắc chắn họ sẽ vùng lên đấu tranh: “Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”. Chị Dậu vốn là người phụ nữ mộc mạc, khiêm nhường, giàu lòng yêu thương, chịu đựng nhưng không hề yếu đuối. Trái lại chị có một tinh thần phản kháng và sức sống mãnh liệt. Chị là đại diện điển hình cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Tác phẩm thành công ở nghệ thuật xây dựng truyện. Tình huống truyện giàu kịch tính, được đẩy lên cao trào. Chính những xung đột mâu thuẫn đã làm cho tính cách mỗi nhân vật được bộc lộ. Tính cách nhân vật chủ yếu được thể hiện qua hành động, ngôn ngữ chưa đi sâu miêu tả nội tâm nhân vật: cai lệ độc ác, bất nhân đại diện cho bộ máy cầm quyền; chị Dậu yêu thương chồng con, sức sống tiềm tàng mãnh liệt, đại diện cho vẻ đẹp người nông dân. Ngôn ngữ giàu chất hiện thực, giản dị, dễ hiểu, mang hơi thở thời đại.

Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, ngôn ngữ giản dị tác giả đã cho thấy cuộc sống của người dân dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Lên án những kẻ cầm quyền độc ác, nhẫn tâm đàn áp, áp bức nhân dân đến bước đường cùng. Đằng sau đó còn là thái độ yêu thương, cảm thông cho những số phận bất hạnh và trân trọng ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người nông dân.

6


Bình An

Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 6

Ngô Tất Tố, nhà báo nổi tiếng, là một học giả có những công trình khảo cứu về triết học phương Đông và về văn học cổ có giá trị. Ông còn là nhà văn có tài luôn gần gũi nông dân “chân lấm tay bùn” với những án văn bất hũ, tiêu biểu trong số đó là tác phẩm “Tắt đèn”. Với cái nhìn sâu sắc, tài chọn lựa những nhân vật điển hình, nhà văn đã tái hiện hình ảnh thảm sầụ của nông dân Việt Nam, đồng thời “Tắt đèn” cũng chính là “cáo trạng” kể về tội ác của bọn quan lại, địa chủ và cường hào ác bá thời thực dân – phong kiến. Tiêu biểu cho cảnh thảm sầu đó là hình ảnh gia đình chị Dậu trong mùa sưu thuế. Dù sống trong cảnh khổ cực, tủi nhục ra sao thì chị Dậu vẫn là người phụ nữ chất phát, lương thiện, giàu đức hy sinh và tình chân thật của một người vợ và người mẹ. Và khi bị chế độ áp bức đẩy vào chân tường, chị đẫ dám chống lại bằng chính sức mạnh của mình qua đoạn văn trích “Tức nước vỡ bờ”.

Vì thiếu sưu thuế mà anh Dậu bị bọn cường hào ác bá bắt giải ra đình hành hạ, đánh đập, bỏ nắng, phơi sương đến độ ngất xỉu. Vì bị sợ vạ lây nên bọn chung sai người nhà lý trưởng cõng cái xác không hồn của anh về trả cho gia đình chị Dậu. Trong cảnh khốn cùng, chị đã tìm mọi cách để cứu chồng tỉnh lại. Chỉ một hành động ấy thôi cũng đủ chứng tỏ chị có lòng thương yêu đậm đà đối với anh Dậu rồi. Anh Dậu vừa tỉnh lại thì trong nhà không có lấy một hạt gạo để cầm hơi. Chị phải vất vả ngược xuôi đi vay mượn ở hàng xóm được lon gạo về nấu cháo cho chồng. Cháo vừa chín, chị ngả mâm bát múc ra la liệt và “lấy quạt, quạt cho cháo mau nguội ” thì tiếng trống, tiếng tù và, tiếng chó sủa đã inh ỏi vang lên ở đầu làng. Hơn ai hết, chị đã một lần hiểu được sau âm thanh oan nghiệt kia chuyện gì sẽ xảy đến cho anh Dậu, cho gia đình chị. Bởi vậy chị càng băn khoăn, lo lắng.

Qua lời đối thoại của chị với bà hàng xóm lúc bà hớt hải chạy qua khuyên chị nên mang anh Dậu đi trốn sưu, cũng đã làm rõ sự băn khoăn suy nghĩ đó. Chị trả lời: “thưa cụ cháu cũng nghĩ như cụ”. “Nghĩ như cụ” là chị cũng định mang anh Dậu đi trốn sưu, nhưng vì anh “nhịn suông từ sáng hôm qua đến giờ”, nên chị đã nấn ná để cho chồng húp ba miếng cháo lấy lại sức trước khi đi trốn. Cháo nguội, chị bưng một bát lớn rồi “rón rén” đặt cạnh chỗ anh Dậu nằm. Có cử chĩ nào đầy tình thương trong bước đi nhẹ nhàng của người phụ nữ chỉ vì muốn cho chồng mình được yên tĩnh trong những phút ốm đau. Chẳng những thế chị còn cố nài nỉ: “Thầy hãy cố dậy húp lấy vài húp cho đỡ xót ruột”. Lời nói ấy chỉ có ở những người phụ nữ vừa giàu lòng thương yêu, vừa kính trọng chồng. Thêm vào đó “chị còn cố ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không?”. Chỉ một cử chỉ đó cũng đủ cho người đọc thấy chị là con người hy sinh, lấy hạnh phúc của chồng con làm hạnh phúc của chính bản thân mình.

Anh Dậu vừa bưng bát cháo đưa lên miệng húp thì tên cai lệ và người nhà lý trưởng sầm sập, hùng hổ tiến vào. Chúng hoạnh hoẹ, chửi bới, đe dọa, để cố đòi cho được tiền sưu.

“Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xải cũ:

– Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!”.

Trước cử chỉ, giọng nối sặc mùi quan liêu, hách dịch nhưng vô cùng bệ rạc đó của tên cai lệ, anh Dậu hoảng quá “vợ để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì”. Chỉ một mình chị Dậu tay nách con tìm cách đối phó. Những giây phút đầu tiên chị Dậu đã “run run” lo sợ, nhưng rồi chị đã bình tĩnh trỡ lại và cố tìm lời khôn khéo để vừa khất cho được tiền sưu thuế, vừa trả đũa lại kẻ thù. Chị đã tự hạ mình xuống hàng “con” “cháu” và tôn xưng kẻ thù là “ông”. Dù bị xâm phạm đến danh dự của cá nhân, của gia đình mình, bị đe dọa: “giời cả nhà mày đi” và bị chửi bới: “nói cho cha mày nghe đấy à”, thì chị vẫn cố nén sự tức giận của mình, vẫn cố chứng minh sự vô lý của việc chính quyền bắt nhà chị phải đóng sưu, vẫn cố van xin tha thiết:

Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thể. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất… và khi không thuyết phục được thì chị đã hé ra một chút liều để xin khất sưu: “Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!”

Không đáp lại lời cầu xin, tên cai lệ ra lệnh cho người nhà lý trưởng “trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!”. Người nhà lý trưởng “hình như không dám hành hạ một người” ốm nặng thì chính anh ta giật phắt sợi dây thừng đi đến chỗ anh Dậu. Lúc này chị Dậu mới “xám mặt”, ấy là màu sắc biểu hiện của người đang trong tâm trạng vừa sợ, vừa lo. Chị vội vàng đặt con xuống đất, chạy lại vừa đỡ lấy tay cai lệ vừa năn nỉ:

Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!

– Tha này! Tha này!
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.

Đúng là một cảnh tượng sống động đã xảy ra giữa một người đàn ông có chút quyền lực với người nữ nông dân có con mọn hiếm thấy. Hành động của hắn như lửa đổ thêm dầu. Chị Dậu đã liều mạng cự lại. Lời nói của chị ở vị trí của một kẻ ngang hàng với kẻ thù và như ra lệnh “chồng tôi đau ốm không được phép hành hạ”, và rồi chị nói như thách thức: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Xét về thái độ và ngôn ngữ, nếu cai lệ và người nhà lý trưởng ỷ thế cậy quyền, tỏ ra quan liêu, hách dịch thì chị Dậu là người biết thủ phận, nhịn nhục dù đang chịu sự bất công chèn ép. Điều ấy được biểu hiện ở những lời xưng hô ban đầu của chị. Thay đổi cách xưng hô ấy là diễn biến tâm trạng biểu hiện thành lời nói. Tự hạ mình thành hàng “con cháu”, “tôi”, và khi căm giận tới tột cùng thì chị đã xưng là “bà”, còn cai lệ từ vai “ông” biến thành “mày”. Không dừng lại ở lời nói, chị đã đáp trả bằng hành động khi cai lệ “bịch luôn vào ngực chị mấy bịch”.

Lấy bạo lực trừng trị bạo lực. Chị đã biến sự căm thù thành hành động tích cực nhất. Chị đã xông về phía tên cai lệ để: “túm lấy cổ ấn giúi ra cửa”. Người nhà lý trưởng thấy đàn anh của mình bị đánh ngã nên hắn lại xông vào. Với sức mạnh của nữ lực điền, chị nắm lấy tóc quẳng cho một cái, khiến “hắn ngã chòng queo ra thềm”. Chị vừa biểu lộ tinh thần đấu tranh, vừa chứng tỏ tiềm năng của những người nô lệ khi đã bị đẩy đến chân tường. Điều ấy càng được chứng tỏ ở câu trả lời của chị khi nghe anh Dậu nhắc đến chuyện “phải tù phải tội” khi đánh bọn người đi đòi sưu thế:

Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”

Chị Dậu đúng là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam sau lũy tre làng.

Khi bị quyền lực bất công dồn vào chân tường, họ biết vùng dậy. Dù là đấu tranh “tự phát” đánh bọn cai lệ người nhà lý trưởng để “thà chịu ngồi tù”, nhưng hành động đấu tranh của chị đã giúp ta nhận rõ thêm phần nào chân lý: “Nơi nào có áp bức nơi đó có đấu tranh”, “Tức nước” (quyền lực bất công đàn áp) thì “vỡ bờ” (nhân dân vùng lên chống lại); thấy rõ sức mạnh tiềm tàng của phụ nữ Việt Nam.

Với nghệ thuật chọn lọc những chi tiết gây căng thẳng, miêu tả thật tự nhiên và đầy kịch tính, nhà văn Ngô Tất Tố đã làm xúc động người đọc qua nhân vật chị Dậu trong tác phẩm: “Tắt đèn” ông xứng đáng là người có công lớn trong việc hình thành và phát triển nền tiểu thuyết Việt Nam thuộc dòng văn học Hiện thực phê phán, thật xứng với lời nhận xét của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan rằng: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”, và của nhà văn Nguyễn Tuân: “Xui người nông dân nổi loạn”.

Hiện nay phụ nữ đã biết đâu tranh giành quyền lợi thiết thực hàng ngày, vừa chống những hiện tượng tiêu cực để xây dựng xã hội vừa dạy dỗ con cái, biết lo cho chồng con và còn là những giáo viên dạy giỏi, thợ dệt tiên tiến, bác sĩ tận tụy trong việc làm để xây dựng đất nước. Họ cũng đã đồng lòng chung sức họp lại để đương đầu với mọi khó khăn trước mắt. Để khỏi phụ lòng những bà mẹ, những người chị đáng kính, em càng nỗ lực trong học tập, tích cực rèn luyện để sau này có đầy đủ tài năng về phẩm chất chống lại bất cứ một ai muốn dùng quyền lực để buộc con người hôm nay phải sống cảnh tủi nhục như chị Dậu đã phải sống.

7


Bình An

Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 7

“Tắt đèn”là bản tố khổ chân thật, sâu sắc, chan hoà nước mắt và lòng căm phẫn của người nông dân nghèo bị bóc lột, đàn áp. Có lẽ chính nhà văn Ngô Tất Tố cũng không cầm được nước mắt. Cái đáng quý ở nhà văn này là thái độ phẫn nộ với giai cấp bóc lột và lòng thương người mênh mông. “Tức nước vỡ bờ” vốn là câu tục ngữ mang tính quy luật tự nhiên (nước đã dâng lên cao thì bờ ngoài vỡ nhưng cũng có ý nghĩa xã hội sâu sắc…, Người ta đã vận dụng câu tục ngữ này làm tiêu đề, tên gọi của một đoạn trích hết sức điển hình trong tiểu thuyết Tắt đèn.

Năm đó là năm mất mùa, gia đình chị Dậu vốn nghèo khó phải đi làm thuê lại càng khó khăn hơn. Để đóng tiền sưu cho chồng, chị đã phải bán gánh khoai, bán đàn chó và đến cái Tí- con gái lớn của chị cũng bán cho ông bà Nghị Quế mới đủ tiền nộp sưu cho anh Dậu. Nhưng bọn chúng đã không tha cho gia đình chị, bắt gia đình chị nộp cả sưu thuế cho người em trai đã mất từ năm ngoái. Vì không nộp, anh Dậu đã bị bọn chúng bắt, đánh đập đến nỗi như một cái xác rồi quẳng trả gia đình chị. Chị Dậu vô cùng thương chồng. May được bà hàng xóm thường tình giúp đỡ cho bát gạo để chị nấu cháo cho chồng.

Khi anh Dậu cố gượng ngồi dậy, chưa kịp đưa bát cháo lên miệng thì tên cai lệ và gã đầy tớ của lí trưởng xộc vào định trói anh để nã thuế. Chị Dậu lức này phải đốì mặt với tình thế nguy ngập: chồng chị vừa mới bị bắt trói, tưởng đã chết đêm qua, bây giờ mà lại bị trói bị đánh nữa chắc anh không sống nổi. Không đếm xỉa đến những lời van xin tha thiết của chị, tên cai lệ bất nhân nhất định xông vào trói anh Dậu. Hắn là một tên tay sai chuyên nghiệp; với hắn không có gì khác ngoài đánh, trói. Hạng người này trong chế độ thực dân, phong kiến sẽ thành thứ công cụ thực sự, không còn là người, ở cái làng Đông Xá ấy, cai lệ thỏa sức hoành hành, tác oai tác quái. Vụ thuế đang là thời điểm tốt nhất để hắn thể hiện tính chuyên nghiệp trong cướp bóc, hà hiếp dân lành.

Chỉ là một tên tay sai mạt hạng nhưng qua những gì hắn làm, có thể nói hắn là hiện thân đầy đủ, rõ rệt cho cái “nhà nước” phi nhân tính, nhân quyền lúc bấy giờ. Hắn “sầm sập tiến vào”, “trợn ngược hai mắt”, “đùng đùng cai lệ giật phắt cái thừng”, “bịch luôn vào ngực chị Dậu”, “sấn đến để trói anh Dậu”, “tát vào mặt chị một cái đánh bốp”,… Hành động của hắn như một con thú dữ. Bản tính ác thú của tên này thể hiện cả ra ngôn ngữ: khàn khàn, quát, thét, hầm hè, nham nhảm… Tiếng của hắn đâu phải là tiếng người! Nếu là người thì hắn đã phải mủi lòng trước cảnh một người ốm nặng, đã động lòng trước những lời van xin tội nghiệp của chị Dậu, hắn đã biết thương hại… Đằng này, dường như hắn không có khả năng hiểu được ngôn ngữ của con người, hắn đáp lại những lời van vỉ của chị Dậu bằng chửi, đánh. Thật táng tận lương tâm!

Lúc đầu chị Dậu tuy giận nhưng vẫn nhẫn nhục van xin tên cai lệ độc ác: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô của chị là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự nhún mình. Lúc bọn chúng sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định trói anh một lần nữa, chị Dậu đã xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ, năn nỉ: Cháu xin ông. Những lời nói và hành động ấy của chị chỉ nhằm mục đích bảo vệ chồng.

Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách, phẩm chất của chị Dậu mới bộc lộ đầy đủ. Tên cai lệ không thèm nghe chị. Hắn đấm vào ngực chị và cứ sấn đến trói anh Dậu. Chị Dậu đã chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách của chị Dậu là kết quả tất yếu của cả một quá trình chịu đựng lâu dài trước áp lực của sự tàn ác, bất công. Nó đúng với quy luật: Có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu. Từ vị thế của kẻ dưới: Cháu van ông…, chị Dậu thoắt nâng mình lên ngang hàng với kẻ xưa nay vẫn đè đầu cười cổ mình: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ. Câu nói cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí. Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi anh Dậu. Tức thì, sau lời cảnh cáo đanh thép của kẻ trên đối với kẻ dưới: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! là hành động phản kháng dữ dội: Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xồ đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng queo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc, lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.

Tình yêu chồng, thương con cộng với tinh thần phản kháng âm ỉ bấy lâu đã thổi bùng lên ngọn lửa căm thù trong lòng chị Dậu – người đàn bà hiền lương, chất phác. Nỗi sợ cố hữu của kẻ bị áp bức phút chốc tiêu tan, chỉ còn lại nhân cách cứng cỏi của một con người chân chính: Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được. Tuy vậy, hành động phản kháng của chị Dậu hoàn toàn mang tính manh động, tự phát. Đó mới chỉ là cái thế tức nước vỡ bờ của một cá nhân mà chưa phải là cái thế của một giai cấp, một dân tộc vùng lên phá tan xiềng xích áp bức bất công. Có áp bức, có đấu tranh, áp bức càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt và hành động của chị Dậu đã chứng minh cho chân lí ấy.

Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” là một trong những đoạn hay của tác phẩm Tắt đèn. Nhà văn Ngô Tất Tố đã dành cho nhân vật chính là chị Dậu tình cảm yêu thương, thông cảm và trân trọng. Những tình tiết sinh động và đầy kịch tính trong đoạn trích đã góp phần hoàn thiện tính cách người phụ nữ nông dân đẹp người, đẹp nết.

số 8


Bình An

Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 8

Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện thực trước Cách mạng tháng tám, nhiều tác phẩm của ông nhằm có giá trị tố cáo sâu sắc chúng ta đã thấy được những hình ảnh đó qua những nhân vật nổi bật trong tác phẩm “Tức nước vỡ bờ.”

Những đề tài tiêu biểu mà Ngô Tất Tố thể hiện qua những tác phẩm của mình đó là sự nghèo khổ của những người nông dân, họ bị bần cùng hóa và lâm vào một con đường khó khăn, họ bị xã hội trà đạp, bị cái đói bao vây. Nhưng nhân dân đói khổ đó một phần là do chiến tranh gây ra một phần là do những thế lực cầm quyền tàn ác đã bòn rút hết những của cải của nhân dân, chúng ta đã thấy trong “Tức nước vỡ bỡ” hình ảnh người nông dân nghèo khổ luôn bị áp bức bóc lột, bị nộp sưu cao thuế nặng đã làm cho mỗi người đều cảm thấy phẫn uất trước những hiện tượng đó. Học phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” khi vừa chịu những ách bóc lột của những kẻ tàn dư còn sót lại, vừa những kẻ đi theo thực dân Pháp bán đứng Tổ Quốc.

Trong đoạn trích, ông thành công trong việc xây dựng hình tượng người phụ nữ trong xã hội đương thời thông qua nhân vật chị Dậu. Và ông rất sắc xảo khi gây dựng những tình tiết trong truyện xoay quanh nhân vật chị Dậu, đã làm sáng lên phẩm chất của người nông dân dù bị đọa đầy. Nhà văn miêu tả chân thực và cảm động về số phận tủi cực của người nông dân bị áp bức, bóc lột, bị dồn đến bước đường cùng. Nhà văn chân thành ca ngợi phẩm chất đáng quý của họ trong hoàn cảnh sống tối tăm, ngột ngạt. Gia đình chị Dậu thuộc loại cùng nhất hạng cùng đinh đang lâm vào tình cảnh bức bách của sưu thuế. Chồng ốm đau lại bị đánh đập khổ sở, chị Dậu một thân một mình chạy vạy ngược xuôi để lo suất Sưu cho anh Dậu. Nếu bị chúng đánh trói lần nữa thì mạng sống của anh khó mà giữ được. Vấn đề quan trọng nhất đối với chị Dậu giờ đây là làm sao bảo vệ được chồng trong tình thế nguy ngập này.

Đoạn trích tiếp nối câu chuyện trên. Vụ thuế đang là thời điểm tốt nhất để hắn bộc lộ tính chuyên nghiệp trong hành nghề cướp bóc, hà hiếp người khác. Chỉ là một tên tay sai mạt hạng nhưng những gì hắn làm, nói đều thể hiện rõ là bộ mặt của “nhà nước” phi nhân tính, nhân quyền bấy giờ.  Hắn “sầm sập tiến vào”, “trợn ngược hai mắt”, “đùng đùng cai lệ giật phắt cái thừng”, “bịch luôn vào ngực chị Dậu. Thoạt đầu, chúng định lôi anh Dậu đi nhưng không hành hung mà chúng lại chửi bới mỉa mai đến nỗi chị Dậu vẫn van xin “cháu xin ông” để khất hạn nộp sưu nhưng rồi chúng sấn đến đánh chị”, “sấn đến để trói anh Dậu”, “tát vào mặt chị một cái bốp”…. hành động của hắn như một con thú dữ, bản tính của hắn đâu phải là người. Lúc này đã chạm đến giới hạn cuối cùng, tính cách của “người đàn bà lực điền” ấy mới bộc lộ một cách mạnh mẽ và cứng cỏi hơn. Vậy nên người ta mới nói có áp bức bất công thì ắt hẳn có sự đấu tranh.

Chị Dậu đang đứng lên để bảo vệ gia đình và cuộc sống của mình. Chị liều mạng chống cự lại những cú đấm thô bạo bằng những lí lẽ sắc bén:” Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!” Không còn xưng hô tôn trọng với những kẻ độc ác và bạo tàn. Chị đứng lên ngang hàng với những kẻ bạo tàn để đấu tranh. Một hành động phản kháng rất mạnh mẽ, chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi đầu ra cửa ” Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm”. Tuy vậy, hành động của chị Dậu chỉ là một cá nhân chứ chưa phải là cả xã hội cùng đấu tranh để giải phóng giai cấp. Có lẽ theo quy luật, càng nhiều áp bức thì sẽ càng xuất hiện đấu tranh. tên cai lệ vô danh đó là hiện thân đầy đủ nhất của cái guồng máy “nhà nước” bất nhân lúc bấy giờ. Tuy chỉ xuất hiện trong một đoạn văn ngắn nhưng nhân vật cai lệ được ngòi bút tả thực của tác giả khắc họa nổi bật, có giá trị khái quát cao.

Bằng tài năng nghệ thuật, cách xưng hô chọn lọc phù hợp cùng với nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo, Ngô Tất Tố đã truyền cho người đọc tình yêu thương, sự đồng cảm với nhân vật chị Dậu cũng như người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.

9


Bình An

Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 9

Văn học Việt Nam trong thời kí kháng chiến chống Pháp thường xoay quanh chủ đề về nông dân. Trong đó tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố tiêu biểu trong thể loại ấy đã để lại không ít ấn tượng trong làng văn học bấy giờ. Đặc biệt là đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã phần nào thể hiện được nội dung phản ánh một phần trong thiên tiểu thuyết.

Đoạn trích đã phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của chế độ thực dân nửa phong kiến, đồng thời thể hiện sự sâu sắc nỗi thống khổ cũng như sức mạnh phản kháng tiềm tang của người nông dân. Có đủ các hạng người được tác giả khắc họa sinh động, từng hình tượng nhân vật đều mang một nét phong cách tiêu biểu đặc trưng mà mình thể hiện. qua đó ta thấy được bức tranh thu nhỏ về đời sống nông thôn Việt nam trước Cách mạng Tháng Tám. Giữa đám sâu bọ hại dân bán nước lúc nhúc nơi làng quê u ám đang rên xiết trong vụ thuế kinh tởm thấy sang lên một chị Dậu đảm đang, chịu thương chịu khó hết mực một lòng vì chồng thương con, một chị Dậu lam lũ, nhẫn nhục nhưng cũng đầy sức mạnh phi thường phản kháng, quyết không để đói khổ làm hoen ố phẩm hạnh.

Hình tượng nhân vật chị Dậu được xem là điển hình cho người phụ nữ Việt trước Cách mạng Tháng Tám ở nước ta.Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu nên hoàn cảnh gia định chị Dậu, thuộc loại cùng nhất hạng cùng đinh, đang lâm vào tình cảnh bức bách của sưu thuế ngày đó. Chồng ốm đau lại bị đánh đập khổ sở dã man, chị Dậu một than một mình chạy vạy khắp nơi ngược xuôi để lo suất sưu cho anh Dậu .Đường cùng, chị đã phải đứt ruột gạt nước mắt mà bán con gái cho Nghị Quế. Một đứa con lên bảy cùng ổ chó cộng lại với được mấy hào bán gánh khoai mới đủ tiền nộp suất sưu để chồng được thả về. Nào ngờ bọn lí dịch lại bắt phải nộp cả suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái, đầy gia đình chị đến mức đường cùng cơ cực.Anh Dậu về nhà với tình trạng thập tử nhất sinh. Bà hang xóm tốt bụng ái ngại cho cảnh đói nhà chị nên mang cho bát gạo để nấu cháo.

Đoạn trích tức nước vỡ bờ là cảnh buổi sớm hôm sau.Anh Dậu cố gượng ngồi dậy, chưa kíp đưa bát cháo lên miệng thì tên cai lệ và gã đầy tớ của lí trưởng xộc vào định trói anh để nã thuế. Chị Dậu lúc này phải đối mặt với tình thế nguy ngập: chồng chị vừa mới được thả trói, tưởng đã chết đêm qua, bây giờ lại trói lại bị đánh nữa thì anh không sống nổi. không đếm xỉa đến những lời van xin tha thiết của chị Dậu, tên cai lệ bất nhân vẫn nhất định xông vào trói anh Dậu. hắn là một tên tay sai chuyên nghiệp; với hắn không có hì khác ngoài đáng đập, trói người. hạng người này trong chế độ thực dân phong kiến bấy giờ là thứ công cụ thực sự, không còn là người, còn cai lệ thì hoành hành tác oai tác quái. Vụ thuế đang là thời điểm tốt nhất để hắn bộc lộ tính chuyên nghiệp trong hành nghề cướp bóc, hà hiếp người khác.

Chỉ là một tên tay sai mạt hạng nhưng những gì hắn làm, nói đều thể hiện rõ là bộ mặt của “nhà nước” phi nhân tính, nhân quyền bấy giờ. Hắn “sầm sập tiến vào”, “trợn ngược hai mắt”, “đùng đùng cai lệ giật phắt cái thừng”, “bịch luôn vào ngực chị Dậu”, “sấn đến để trói anh Dậu”, “tát vào mặt chị một cái bốp”…. hành động của hắn như một con thú dữ. bản tính của hắn đâu phải là người. nếu là người hắn đã mủi lòng mà xót thương, xúc động mà không lỡ hành xử như vậy với người phụ nữ mỏng manh như chị Dậu. hắn chỉ đáp lại những lời van xin thống thiết của chị Dậu bằng những cú đạp, những hành động của một con dã thú đội lốt người. Xuất hiện trong thoáng chốc song nhân vật cai lệ được Ngô Tất Tố khắc họa một cách rõ nét, sống đông hệt như con ác thú thực sự. qua đó ta thấy thương xót cho cuộc sống người nông dân Việt Nam nói chung bấy giờ.

Thử tưởng tượng cảnh chị dậu phải sống hay cũng chính là hình ảnh người nông dân phải trải qua. Thật kinh khủng. Sống trong không khí âm u, đè nặng bởi sưu cao thuế nặng ấy người nông dân phải chịu sự cùm kẹp như thế nào? Chị dậu thương chồng, con hết mực. Bát cháo chị nấu cho anh Dậu và cử chỉ “rón rén bưng”, “chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không” cho thấy nét đẹp trong ban lĩnh phụ nữ của chị. Vẻ đẹp của chị còn được thể hiện một cách đặc sắc khi một mình chị phải đứng ra đương đầu với lũ ác tà là tên cai lệ và người nhà lí trưởng.Giống bao phụ nữ nông dân khác, chị có thể cam chịu, nhẫn nhục. Chị đã phải “van xin tha thiết” trước bọn người nhân danh “nhà nước”, mặc dù là sự nún nhịn trước sự vô lí, bất nhân. Chỉ đến khi tên cai lệ bất chấp, lại còn bịch ngực chị, xông đến trói anh Dậu thì nước tràn bờ và chị “liều mạng cự lại”.

Ngô Tất Tố rất tài tình khi miêu tả rất tinh những diễn biến tâm lí và hành động của chị Dậu, để nó diễn ra một cách chân thực trước mắt người đọc. ta có thể xem quá trình diễn biến ấy làm hai đoạn: từ chịu đựng nhẫn nhục đến phản kháng mãnh liệtThoạt đầu chị xưng cháu gọi cai lệ bằng ông. Nhưng đáp lại lời là cái quát của cai lệ “ Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?” thậm chí còn “giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. lúc này chị vẫn một mực tha thiết “Cháu van ông…ông tha cho”. Đến mức như thế nhưng cai lệ không những không mủi lòng mà còn xông tới đấm vào ngực chị. Đến đây, mới thấy bắt đầu dấu hiệu phản kháng của người phụ nữ này: chị xưng tôi, gọi cai lệ là ông. “không thể chịu được” nữa, chị Dậu đứng lên với vị trí ngang hang kẻ thù, đối đầu trực diện.

Quá trình diễn biến ấy được đẩy lên đỉnh điểm, kịch tính đã hết mức căng thẳng khi tên cai lệ tát “đánh bốp” vào mặt chị Dậu. thế là thực sự bắt đầu một giai đoạn mới của sự phản kháng. Chị xưng mày tao với tên cai lệ: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Từ cháu-ông đến tôi-ông bây giờ là bà-mày, niềm căm hận bốc lên ngùn ngụt trong chị. Căm thù, khinh bỉ tột độ, chị sẵn sàng đè bẹp kẻ thù với sức mạnh của một “bản năng sống” mạnh mẽ. sức mạnh ấy được phóng ra như một năng lượng tiềm táng thành những hành động mạnh bạo: túm lấy cổ, ấn giúi ra cửa, túm tóc, lẳng. Trước sức mạnh ấy, hai tên kia đã thất bại thảm hại hay cũng chính là thất bại tất yếu mà lũ tay sai bè phái bán nước hại dân nhận được.

Bằng tài năng miêu tả tâm lí nhân vật, khả năng dựng cảnh, tính huống Ngô Tất Tố đã dựng lên một khung cảnh sống ngột ngạt nơi làng quê. Từ đó mà ta thấy được rõ hơn, đồng cảm hơn với cuộc sống cũng cực ủa người nông dân bấy giờ. Nhưng phía sau đó vẫn là một niềm tin vào tương lai tươi sáng.

mười


Bình An

Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 10

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của chế độ thực dân phong kiến, đồng thời thể hiện sự sâu sắc nỗi thống khổ cũng như sức mạnh phản kháng tiềm tàng của người nông dân. Có đủ các hạng người được khắc họa sinh động trong bức tranh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng ấy. Giữa cái dám sâu bọ hại dân lúc nhúc ở cái làng quê u ám đang rên xiết trong vụ thuế kinh tởm thấy sáng lên một chị Dậu đảm đang, chịu thương chịu khó hết mực vì chồng vì con, một chị Dậu lam lũ, nhẫn nhục nhưng cũng đầy sức mạnh phản kháng, quyết không để đói khổ làm hoen ố phẩm hạnh.

Hình tượng nhân vật này được xem là điển hình cho người phụ nữ nông dân bây giờ. Gia đình chị Dậu thuộc loại cùng nhất hạng cùng đinh đang lâm vào tình cảnh bức bách của sưu thuế. Chồng ốm đau lại bị đánh đập khổ sở, chị Dậu một thân một mình chạy vạy ngược xuôi để lo suất Sưu cho anh Dậu. Đường cùng, chị đã phải đứt ruột, gạt nước mắt mà bán con cho Nghị Quế. Một đứa con lên bảy, một ổ chó cộng với mấy hào bán gánh khoai mới đủ tiền nộp suất SƯU để chồng được tha về. Nào ngờ bọn lí dịch lại bắt phải nộp cả suất SƯU của người em chồng đã chết từ năm ngoái, đẩy gia đình chị đến cùng cực.

Anh Dậu về nhà nhưng lâm vào tình trạng thập tử nhất sinh. Bà hàng xóm tốt bụng ái ngại cho cảnh đói nhà chị Dậu mang cho bát gạo để nấu cháo. Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là cảnh buổi sớm hôm sau. Khi anh Dậu cố gượng ngồi dậy, chưa kịp đưa bát cháo lên miệng thì tên cai lệ và gã đầy tớ của lí trưởng xộc vào định trói anh để nã thuế. Chị Dậu lức này phải đốì mặt với tình thế nguy ngập: chồng chị vừa mới bị bắt trói, tưởng đã chết đêm qua, bây giờ mà lại bị trói bị đánh nữa chắc anh không sống nổi. Không đếm xỉa đến những lời van xin tha thiết của chị, tên cai lệ bất nhân nhất định xông vào trói anh Dậu. Hắn là một tên tay sai chuyên nghiệp; với hắn không có gì khác ngoài đánh, trói. Hạng người này trong chế độ thực dân, phong kiến sẽ thành thứ công cụ thực sự, không còn là người, ơ cái làng Đông Xá ấy, cai lệ thỏa sức hoành hành, tác oai tác quái.

Vụ thuế đang là thời điểm tốt nhất để hắn thể hiện tính chuyên nghiệp trong cướp bóc, hà hiếp dân lành. Chỉ là một tên tay sai mạt hạng nhưng qua những gì hắn làm, có thể nói hắn là hiện thân đầy đủ, rõ rệt cho cái “nhà nước” phi nhân tính, nhân quyền lúc bấy giờ. Hắn “sầm sập tiến vào”, “trợn ngược hai mắt”, “đùng đùng cai lệ giật phắt cái thừng”, “bịch luôn vào ngực chị Dậu”, “sấn đến để trói anh Dậu”, “tát vào mặt chị một cái đánh bốp”,… Hành động của hắn như một con thú dữ. Bản tính ác thú của tên này thể hiện cả ra ngôn ngữ: khàn khàn, quát, thét, hầm hè, nham nhảm… Tiếng của hắn đâu phải là tiếng người! Nếu là người thì hắn đã phải mủi lòng trước cảnh một người ốm nặng, đã động lòng trước những lời van xin tội nghiệp của chị Dậu, hắn đã biết thương hại… Đằng này, dường như hắn không có khả năng hiểu được ngôn ngữ của con người, hắn đáp lại những lời van vỉ của chị Dậu bằng chửi, đánh. Thật táng tận lương tâm!

Chỉ xuất hiện trong một thoáng chốc song nhân vật cai lệ dã được Ngô Tất Tố khắc họa một cách rõ nét, sống động hệt như một con thú ác thực sự, đang sống. Làm sao những người dân lành có thể sống yêu ổn được dưới roi song, tay thước, dây thừng của hạng người đểu cáng này! Thế mà chị Dậu đã phải sống, cả nhà chị Dậu đã phải sống và nói rộng ra, cả cái làng Đông Xá này đã phải sống, tất cả những người nông dân ở biết bao cái làng khác cũng đã phải sống. Chỉ có điều sống dở chết dở, sống đau sống đớn mà thôi! Chị Dậu thương chồng, con hết mực. Bát cháo chị nấu cho anh Dậu và cử chỉ “rón rén bưng”, “chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không” cho thấy nét đẹp trong bản lĩnh phụ nữ của chị. Và, vẻ đẹp của chị Dậu còn được thể hiện một cách đặc sắc khi một mình chị phải đứng ra đương đầu với lũ ác là tên cai lệ và người nhà lí trưởng. Như những người phụ nữ nông dân khác, chị Dậu có thể cam chịu, nhẫn nhục.

Chị đã phải “van xin tha thiết” trước bọn người đang nhân danh “nhà nước”, mặc dù là sự nhún chịu trước sự vô lí, bất nhân (đánh vào người đã chết). Chỉ đến khi tên cai lệ bất chấp, lại còn bịch vào ngực chị, xông đến trói anh Dậu thì “tức quá không thể chịu được”, chị đã “liều mạng cự lại”. Cái tài của Ngô Tất Tố là đã miêu tả rất tinh những diễn biến trong tâm lí và hành động của chị Dậu, để nó thế hiện ra chân thực trước mắt người đọc. Có thể xem quá trình diễn biến ấy có hai giai đoạn: từ chịu đựng nhẫn nhục đến phản kháng mãnh liệt. Thoạt đầu chị xưng cháu, gọi cai lệ bằng ông. Nhưng đáp lại những lời lễ phép thấu tình của chị, cai lệ quát: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?” rồi: “Ông sẽ dỡ cả nhà mày đi”, chưa hết: “Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”.

Đến lúc này, chị Dậu vẫn một mực tha thiết: “Cháu van ông,…,ông tha cho!”. Đến mức như thế nhưng cai lệ không những không mủi lòng mà còn xông tới đấm vào ngực chị Dậu. Đến đây, mới thấy bắt đầu những dấu hiệu phản kháng của người phụ nữ này: chị xưng tôi, gọi cai lệ là ông. “Không thể chịu được” nữa, chị Dậu đã đứng lên, với vị thế của kẻ ngang hàng, trực diện với thế lực áp bức. Quá trình diễn biến ấy được đẩy lên đỉnh điểm, kịch tính đã hết mức căng thẳng khi tên cai lệ tát “đánh bốp” vào mặt chị Dậu. Thế là thực sự bắt đầu một giai đoạn mới của sự phản kháng, chị xưng, gọi mày với tên cai lệ: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”… Từ cháu – ông đến tôi – ông và bây giờ là bà – mày, niềm căm giận đang bốc lên ngùn ngụt trong chị.

Căm thù, khinh bỉ tột độ, chị sẵn sàng đè bẹp kẻ thù với sức mạnh của một “bản năng sống” mạnh mẽ. Sức mạnh ấy được phóng ra như một năng lượng tiềm tàng thành những hành động: túm lấy cổ, ấn giúi ra cửa, túm tóc, lẳng. Trước sức mạnh ấy, hai tên tay sai đã thất bại thảm hại. Ngô Tất Tố miêu tả rất sống động cảnh chị Dậu tay không đánh bại hai tên tay sai đang lăm lăm vũ khí. Lòng căm phẫn, tình yêu thương chính là cội nguồn sức mạnh phản kháng mãnh liệt mà chị Dậu đã cho thấy những hành động cục súc, ác ôn của tên cai lệ là nguyên nhân trực tiếp, “châm ngòi nổ” cho hành động vùng lên của chị Dậu.

Nhưng sâu xa hơn, căn bản hơn, chính là tình thương trong chị đã biến thành sức mạnh. Một người phụ nữ nghèo khổ, quen nhẫn nhục hi sinh đã dám đứng thẳng lên với một sức mạnh phản kháng phi thường. Vẻ đẹp nhân cách của chị Dậu đã được thể hiện rõ nét. Thì ra, đằng sau sự khiêm nhường, vị tha, mộc mạc, nhẫn nhục, trong con người ấy vẫn tiềm tàng ẩn chứa một sức sống dồi dào, mãnh liệt. Sức sống ấy được bộc lộ ra bằng sự phản kháng quyết liệt như ta đã thấy. Nó chứng minh một chân lí của muôn đời: có áp bức thì có đấu tranh — điều mà nhân dân ta đã tổng kết trong một hình ảnh giản dị: “Tức nước vỡ bờ”.

Ngòi bút Ngô Tất Tố đã đạt đến một trình độ điêu luyện trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ: từ sự khéo léo trong khắc họa nhân vật cho đến việc lựa chọn sử dụng từ ngữ để lột tả chính xác, sinh động những diễn biến đầy kịch tính. Ông đã dựng lên một cảnh tượng cực kì sống động, một cảnh tượng đẹp, tươi sáng trong cái khung cảnh u ám, đen tối của Tắt đèn.

Những gì chúng ta được chứng kiến trong đoạn trích dự báo một khả năng, một sức mạnh lớn của người nông dân nói chung, phụ nữ nông dân nói riêng mà sau này, sức mạnh ấy được tập hợp thành vũ bão quật đổ thực dân, phong kiến trong Cách mạng tháng Tám.